Sáng 17/12, Hội thảo Văn hóa 2022 được khai mạc trọng thể tại tỉnh Bắc Ninh với chủ đề: “Thể chế, chính sách và nguồn lực cho phát triển văn hóa”. Tổng Giám đốc Trung tâm Bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam tham dự và có bài tham luận tại Hội thảo.
Với chủ đề: "Thể chế, chính sách và nguồn lực cho phát triển văn hóa" , sau khai mạc, Hội thảo chia làm 2 phiên phiên chuyên đề và phiên toàn thể với 3 nhóm nội dung chính: Thể chế, Chính sách và Nguồn lực phát triển văn hóa. Mỗi phiên sẽ có 1 báo cáo trung tâm, các tham luận và phần thảo luận của các diễn giả, chuyên gia phần thảo luận với hình thức trao đổi, thảo luận bàn tròn. Nhạc sĩ Đinh Trung Cẩn - Tổng Giám đốc Trung tâm Bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhạc sĩ Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội Âm nhạc thành phố Hồ Chí Minh đã có tham luận với tiêu đề: Bảo vệ quyền tác giả cho phát triển văn hóa, nghệ thuật ở nước ta hiện nay. Chúng tôi trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc bài tham luận này.
I. Giới thiệu
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa hiện nay, phát triển văn hóa giữ vai trò vô cùng quan trọng đối với mục tiêu phát triển và tiến bộ xã hội, góp phần kiến tạo nền tảng tinh thần cho xã hội, tạo động lực và nguồn lực cho tiến trình đổi mới, phát triển của đất nước theo đúng quan điểm, đường lối của Đảng về xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam được thể hiện trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Nghị quyết số 33-NQ/TW đặt ra yêu cầu đẩy nhanh việc thể chế hóa, cụ thể hóa các quan điểm, đường lối của Đảng về văn hóa bằng cách xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về văn hóa, nghệ thuật, quyền tác giả và các quyền khác phù hợp với chuẩn mực quốc tế và thực tiễn Việt Nam.
II. Chính sách bản quyền tác giả và vai trò của nó đối với phát triển văn hóa, nghệ thuật ở nước ta
1. Chính sách pháp luật về bảo hộ quyền tác giả
Ngay từ Hiến pháp đầu tiên năm 1946 của Việt Nam, vấn đề bảo vệ tài sản trí tuệ đã được hình thành ý tưởng và được tiếp tục ghi nhận tại các bản Hiến pháp sau này. Hiến pháp năm 1992 đã có quý định rõ tại Điều 60 như sau: "Công dân có quyền nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, phát minh, sáng chế, sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, sáng tác, phê bình văn học nghệ thuật và tham gia các hoạt động văn hóa khác. Nhà nước bảo hộ quyền tác giả, quyền sở hữu công”.
Việt Nam đã từng bước xây dựng và hoàn thiện các chính sách pháp luật về quyền tác giả. Năm 1994, Pháp lệnh Bảo hộ quyền tác giả được ban hành; đến Bộ luật Dân sự năm 2005, các nội dung về quyền tác giả được quy định thành một chương riêng biệt tại Phần thứ sáu - Chương V, từ Điều 745 đến Điều 779 với các quy định tiến bộ và hợp lý hơn về bản quyền; ngoài ra, tại Bộ luật Hình sự, Luật Báo chí, Luật Xuất bản và các luật, văn bản quy phạm pháp luật khác cũng đã có các quy định về quyền tác giả. Đặc biệt, đến năm 2005, trước yêu cầu đổi mới, phát triển, hội nhập của đất nước, Luật Sở hữu trí tuệ đã ra đời với những quy định cụ thể, chuyên biệt về quyền tác giả và quyền liên quan tại Phần thứ hai của Luật, tạo điều kiện cho hoạt động thực thi bảo hộ quyền tác giả; từ đó các nguyên tắc cơ bản của việc bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan nói chung đã được hệ thống một cách cụ thể, rõ ràng, khoa học và toàn diện, đồng thời tiếp tục được hoàn thiện qua các lần sửa đổi, bổ sung vào các năm 2009, 2019 và 2022.
Việc gia nhập vào các điều ước quốc tế về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền tác giả nói riêng trở thành xu thế chung của quốc tế. Đối với việc bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm nghệ thuật, có một số các điều ước điều chỉnh với vấn đề này như: Công ước Berne, Hiệp định TRIPs, Hiệp định WCT của WIPO…
Công ước Berne về Bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật chính thức có hiệu lực tại Việt Nam từ ngày 26/10/2004. Sau nhiều lần sửa đổi, Công ước Berne đang đáp ứng được những yêu cầu bảo hộ Quyền tác giả trong thời đại công nghệ 4.0 hiện nay. Công ước Berne đặt ra các nguyên tắc cơ bản như:
Nguyên tắc đối xử quốc gia: Là nguyên tắc đặt ra cho các quốc gia thành viên thực hiện bảo hộ tác phẩm có nguồn gốc từ các quốc gia thành viên khác, tương tự như sự bảo hộ tác phẩm của công dân quốc gia mình. Sự bảo hộ đó không kém thuận lợi, không thấp hơn sự bảo hộ đối với công dân thuộc quốc gia mình. Nguyên tắc này đặt ra sự bình đẳng trong đối xử với công dân và pháp nhân của các quốc gia thành viên.
Nguyên tắc bảo hộ đương nhiên: Là sự bảo hộ không lệ thuộc vào bất kì thủ tục hình thức nào, như là thủ tục đăng kí cấp giấy chứng nhận, việc nộp lưu chiểu, hoặc các thủ tục tương tự khác.
Nguyên tắc bảo hộ độc lập: Là nguyên tắc nêu yêu cầu cho các quốc gia thành viên việc bảo hộ để công dân và các pháp nhân được hưởng và thực thi các quyền được cấp theo Công ước là độc lập với những gì được hưởng tại nước xuất xứ của tác phẩm.
Về cơ bản, Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam đã có những quy định về quyền tác giả khá tương thích với Công ước Berne, đồng thời đã kịp thời được sửa đổi, bổ sung nhiều lần để phù hợp và đáp ứng yêu cầu về việc áp dụng Công ước, trên cơ sở quy định tại Khoản 1 Điều 36: “Mỗi nước thành viên Liên hiệp sẽ cam kết ban hành những biện pháp cần thiết, phù hợp với Hiến pháp của mình, nhằm đảm bảo việc áp dụng Công ước này”.
Hiệp định TRIPs Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ bắt đầu có hiệu lực từ 01/01/1995 cùng với sự ra đời của Tổ chức Thương mại thế giới WTO. Từ năm 1995, Hiệp định TRIPs đã mang lại những thay đổi căn bản trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, khẳng định vai trò và mở rộng các chuẩn mực và quy định của Công ước Berne. Hiệp định TRIPs có hiệu lực tại Việt Nam từ ngày 11/01/2007; Việt Nam trở thành thành viên của WTO vào năm 2007, từ đó Việt Nam cam kết thực hiện đầy đủ Hiệp định này ngay sau khi gia nhập.
Hiệp định TRIPs thừa nhận tầm quan trọng của việc bảo hộ sở hữu trí tuệ đối với hoạt động thương mại, đầu tư, và các thiệt hại đối với quyền lợi thương mại hợp pháp khi quyền sở hữu trí tuệ không được bảo hộ và thực thi một cách thoả đáng.
Hiệp ước WCT Hiệp ước về quyền tác giả của Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới – WIPO được phê chuẩn vào năm 1996 nhằm đáp ứng cho các quy tắc mới về quyền tác giả; Hiệp ước là một hiệp định đặc biệt theo Công ước Berne liên quan đến việc bảo vệ các tác phẩm và quyền của các tác giả trong môi trường kỹ thuật số.
Việt Nam đã ký văn kiện gia nhập Hiệp ước WCT vào ngày 17/11/2021, trở thành thành viên thứ 111 của WCT. Hiệp ước chính thức có hiệu lực tại Việt Nam vào ngày 17/02/2022. Việc gia nhập WCT đem lại cơ hội mới cho Việt Nam: Thứ nhất, giúp Việt Nam đáp ứng các cam kết trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới; Thứ hai, giúp tạo nền tảng pháp lý hữu hiệu để bảo vệ tác phẩm và quyền tác giả trên môi trường số; Thứ ba, góp phần bảo vệ quyền tác giả một cách minh bạch và hiệu quả, đặc biệt là trên không gian mạng.
Như vậy, nhìn một cách tổng quát, hệ thống pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia về quyền tác giả hiện nay đã tương đối hoàn thiện nhằm đảm bảo thực thi bảo hộ quyền tác giả cũng như đảm bảo thực thi các điều ước quốc tế trên thực tế. Các quy định pháp luật Việt Nam về quyền tác giả về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu bảo hộ quyền tác giả nói chung và thực thi các Điều ước quốc tế về quyền tác giả; xác lập được hành lang pháp lý an toàn, khuyến khích các hoạt động sáng tạo; bảo hộ quyền tác giả của những tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học do lao động của tư duy sáng tạo ra; bảo đảm việc điều chỉnh hầu hết các quan hệ xã hội ở lĩnh vực này phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế, dự báo được xu thế phát triển trong nước và trên trường quốc tế. Vì vậy, nó thể hiện tư tưởng tiến bộ, nhân văn về quyền con người của Nhà nước Việt Nam. Ở hầu hết các lĩnh vực, từ báo chí, xuất bản, điện ảnh, âm nhạc, nghệ thuật biểu diễn, nghệ thuật tạo hình đến phát thanh, truyền hình… đều tôn trọng các quyền đặt tên tác phẩm, quyền đứng tên tác giả trên tác phẩm, quyền cho phép khai thác, sử dụng tác phẩm, quyền bảo vệ sự toàn vẹn tác phẩm và quyền được hưởng nhuận bút, thù lao và các lợi ích vật chất khác phát sinh từ việc cho phép khai thác, sử dụng tác phẩm của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm.
Ba vấn đề quan trọng nhất đối với sự phát triển văn hóa là thể chế, chính sách và nguồn lực. Trong những năm qua, pháp luật về quyền tác giả đã phát huy tác dụng tích cực trên các mặt. Pháp luật đã tạo lập môi trường khuyến khích tự do sáng tạo các giá trị văn học, nghệ thuật và khoa học, thúc đẩy phong trào nghiên cứu, sáng tạo nói chung, trong giới trí thức, văn nghệ sĩ nói riêng. Pháp luật là phương tiện để tác giả bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình, là công cụ để quản lý, giữ gìn trật tự xã hội về quyền tác giả, ngăn chặn những sản phẩm văn hóa độc hại, bất lợi cho cộng đồng và lợi ích quốc gia. Trong thời đại kinh tế tri thức, đối với bất kỳ một quốc gia nào - chính sách bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và bảo hộ quyền tác giả nói riêng, đều là vấn đề sống còn để phát triển kinh tế xã hội. Điều đó không những tạo ra môi trường bình đẳng cho các tổ chức và cá nhân khi tham gia quan hệ pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, mà còn là động lực thúc đẩy sự sáng tạo, hay “khơi thông được nguồn lực sáng tạo từ các văn nghệ sĩ” - theo lời PGS.TS. Bùi Hoài Sơn.
Các nền tảng pháp lý, chính sách pháp luật về bản quyền từng bước được xây dựng và hoàn thiện đã ngày càng khẳng định yếu tố then chốt của quyền sở hữu trí tuệ nói chung, quyền tác giả nói riêng trong các hoạt động thương mại, đầu tư, hợp tác quốc tế, đồng thời khẳng định vai trò hết sức quan trọng của việc bảo vệ quyền tác giả, bảo vệ tài sản trí tuệ được kết tinh từ lao động sáng tạo, là động lực thúc đẩy hoạt động sáng tạo và phát triển các ngành công nghiệp văn hóa trong giai đoạn hiện nay, phù hợp với quan điểm, đường lối của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
2. Vai trò của chính sách quyền tác giả đối với phát triển văn hóa
Bảo vệ quyền tác giả đã góp phần thúc đẩy hoạt động sáng tạo, giúp tác giả có thêm tâm huyết, chuyên tâm sáng tác và cống hiến để tạo nên những tác phẩm. Liên quan đến một số lĩnh vực văn hóa – nghệ thuật, có thể thấy hoạt động bảo vệ quyền tác giả trong thời gian qua đã góp phần thúc đẩy hoạt động sáng tạo nhằm tôn vinh, bảo vệ thành quả của các tổ chức, cá nhân đã lao động sáng tạo, cống hiến, đóng góp cho lợi ích công chúng và sự tiến bộ xã hội, tạo môi trường tốt cho các tác giả sáng tạo ra nhiều tác phẩm có chất lượng và giá trị nghệ thuật, góp phần quan trọng để triển khai chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa.
Đơn cử ở lĩnh vực âm nhạc và qua thực tế công tác bảo vệ bản quyền âm nhạc của một tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả như VCPMC đã cho thấy, việc đảm bảo được lợi ích về quyền tài sản luôn góp phần tạo niềm tin và khích lệ sức sáng tạo dồi dào của các tác giả, nhạc sĩ. Theo thống kê từ VCPMC những năm qua, thông qua phương thức quản lý tập thể quyền, nhiều tác giả thành viên đã có được nguồn thu nhập khá ổn định từ khoản tiền nhuận bút được khai thác từ chính tác phẩm – đứa con tinh thần của mình. Số tiền bản quyền sử dụng tác phẩm do VCPMC thu được và phân phối, chi trả là nguồn động lực thiết thực đối với các tác giả, giúp tái tạo sức lao động sáng tạo của tác giả để tiếp tục cống hiến cho đời nhiều tác phẩm hay, có giá trị.
Thời gian qua, tình trạng vi phạm bản quyền đã khiến người sáng tạo và nhà sản xuất bị mất đi rất nhiều cơ hội thu về lợi ích, ảnh hưởng không nhỏ đến động lực sáng tạo. Chính vì vậy, chỉ khi chính sách bảo vệ quyền tác giả được thực thi tốt thì mới có thể giảm thiểu tình trạng vi phạm, đồng thời tạo được môi trường hưởng thụ văn hóa lành mạnh, văn minh, giàu tính nhân văn và thượng tôn pháp luật.
Bảo vệ quyền tác giả đã góp phần phát triển văn hóa, phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, phát triển kinh tế đất nước. Với chính sách bảo hộ tác quyền tác giả, lợi ích từ việc khai thác bản quyền là rất lớn khi tác phẩm tham gia vào thị trường, được thương mại hóa. Tác giả sẽ có được thu nhập từ việc chuyển giao quyền sở hữu, quyền sử dụng với những tác phẩm mình sáng tạo ra. Sự sáng tạo trong văn học, nghệ thuật phần lớn mang dấu ấn cá nhân của các văn nghệ sĩ và được kết tinh thành các tác phẩm, công trình văn học, nghệ thuật có giá trị, được sản xuất, giới thiệu, phổ biến rộng rãi đến công chúng. Thực thi tốt việc bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan sẽ giúp các văn nghệ sĩ nâng cao tư duy, quan niệm và triết lý sáng tạo, góp phần xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, văn minh phù hợp với nền kinh tế số và sự phát triển xã hội bền vững. Bảo vệ quyền tác giả đã giúp khích lệ tinh thần sáng tạo để tác giả tạo nên những tác phẩm có chất lượng cao, có khả năng chinh phục thị trường và trở thành những sản phẩm văn hóa mang lại nguồn lợi kinh tế, góp phần phát triển ngành công nghiệp văn hóa. Vì vậy, hoạt động bảo vệ quyền tác giả giữ một vai trò hết sức quan trọng đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế và công cuộc đổi mới, phát triển, hội nhập của đất nước; việc khuyến khích sáng tạo cá nhân, phổ biến các sáng tạo và bảo hộ các sáng tạo đó là xu hướng và điều kiện thiết yếu đối với quá trình phát triển bền vững đất nước, phát huy nội lực và tăng trưởng kinh tế.
Bảo vệ quyền tác giả còn góp phần thúc đẩy phát triển thị trường văn hóa theo hướng cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, hướng đến công chúng hưởng thụ, phù hợp với đường lối phát triển văn hóa, phát triển đất nước. Khác với các loại thị trường khác, thị trường văn hóa mang tính đặc thù. Các sản phẩm văn hóa là loại hàng hóa đặc biệt, có giá trị được đo lường bởi sức lan tỏa trong không gian, trải nghiệm theo thời gian và theo nhu cầu thụ hưởng văn hóa hết sức phong phú, đa dạng của công chúng. Các sản phẩm văn hóa không chỉ thể hiện giá trị vật chất mà còn bao gồm cả các giá trị tinh thần, tri thức, tình cảm, khả năng thẩm mỹ, sức sáng tạo của một dân tộc. Chính nhờ những giá trị văn hóa và thông điệp cuộc sống ẩn chứa bên trong các sản phẩm văn hóa nói chung hay các tác phẩm nghệ thuật nói riêng mà có nhiều sản phẩm, tác phẩm cùng với thời gian ngày càng trở nên giá trị hơn, khẳng định sức cạnh tranh trên thị trường, đủ sức tham gia vào sân chơi chung của quốc tế, một sân chơi lành mạnh, công bằng và hài hòa lợi ích.
Chính sách quyền tác giả giữ một vai trò hết sức quan trọng, không những nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể quyền tác giả và tác phẩm văn hóa - nghệ thuật của những người sáng tạo, mà còn nhằm thúc đẩy phát triển văn hóa, phát triển kinh tế, xã hội, khuyến khích việc sáng tạo, phổ biến, chuyển tải các tác phẩm văn hóa nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật đến với công chúng, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ của nhân dân, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, góp phần vào chiến lược phát triển giáo dục xây dựng con người mới trong giai đoạn hiện nay. Môi trường pháp lý nghiêm minh, sẽ thu hút các hoạt động giao lưu văn hóa với khu vực và quốc tế. Điều đó vừa khẳng định lợi thế cạnh tranh lành mạnh của các sản phẩm văn hóa và dịch vụ văn hóa trong nước trước sự xâm nhập ồ ạt của văn hóa ngoại, vừa góp phần kiểm soát được sự sản xuất, lưu thông cũng như xuất nhập khẩu các sản phẩm văn hóa nghệ thuật kém chất lượng, hay có nội dung phản văn hóa. Về mặt kinh tế, bảo hộ quyền tác giả là yếu tố quan trọng để bảo vệ và cân bằng lợi ích chính đáng của tác giả, của chủ sở hữu tác phẩm với lợi ích của công chúng và của xã hội. Đặc biệt điều đó cũng khuyến khích sự đầu tư cho các ngành công nghiệp bản quyền về lĩnh vực văn học, nghệ thuật, mang lại lợi ích rất lớn cho các quốc gia như một ngành công nghiệp không khói. Việc thực thi bảo hộ quyền tác giả sẽ góp phần gia tăng động lực sáng tạo, đem lại sự công bằng trong đãi ngộ thành quả lao động của đội ngũ văn nghệ sĩ sáng tác. Đây là “yếu tố nội sinh” đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển văn hóa thời kỳ mới.
III. Xu hướng, thực trạng và giải pháp
1. Xu hướng giải trí số
Nhu cầu giải trí của con người là rất đa dạng và có thể tùy nghi, thích ứng theo từng môi trường, thời điểm, hoàn cảnh. Điều này càng được thể hiện rõ qua những biến động chung của toàn thế giới trong thời gian qua, đặc biệt là sau đại dịch Covid, thì nhìn chung các hình thức giải trí, hưởng thụ văn hóa đang có sự chuyển dịch mạnh mẽ từ cách thức truyền thống sang cách thức trực tuyến, xu hướng online, hay nói cách khác là xu hướng giải trí số như game online, xem phim online, nghe nhạc online, đọc truyện sách báo online, livestream.... Kỹ thuật số đã và đang đưa nền công nghiệp giải trí ngày một phát triển trong tương lai. Do đó, hiện nay, khi mô hình giải trí online đang phát triển thì càng cần chú trọng nhiều nhất tới vấn đề bản quyền trên môi trường số.
Nói riêng ở lĩnh vực âm nhạc, xu hướng khai thác bản quyền âm nhạc của Việt Nam và dự báo thị trường âm nhạc trong tương lai cũng chính là âm nhạc trực tuyến streaming.
Theo công bố của WeAreSocial và Hootsuite hai đơn vị toàn cầu chuyên nghiên cứu về truyền thông xã hội đã công bố báo cáo toàn cảnh ngành Digital trong năm 2021, tại Việt Nam ước tính hiện có 72 triệu người tham gia, sử dụng mạng xã hội, trong đó người Việt trung bình dành thời gian hơn một giờ mỗi ngày để nghe nhạc trên thiết bị di động của họ. Nắm bắt được thị hiếu của người Việt, rất nhiều các công ty công nghệ, các nhà phát triển ứng dụng đã đầu tư và phát triển các website, các ứng dụng nghe nhạc trực tuyến để người dùng có thể thưởng thức âm nhạc bất kỳ nơi nào và bất kỳ thời gian nào họ muốn. Tại Việt Nam, streaming đã không còn là một hình thức nghe nhạc xa lạ, nhưng vẫn còn đang ở trong giai đoạn đầu của sự phát triển. Với số lượng dân số trẻ có đang dần thay đổi thói quen từ nghe nhạc truyền thống sang nghe nhạc sang trực tuyến, cùng với sự phát triển các nền tảng online kết hợp với các ứng dụng trên điện thoại thông minh, tiềm năng của thị trường nghe nhạc trực tuyến tại Việt Nam là rất lớn.
Kể từ khi ra đời đến nay, âm nhạc trực tuyến đã phát triển một cách nhanh chóng và là một trong những lựa chọn hàng đầu cho việc nghe nhạc. Rất nhiều dịch vụ nghe nhạc trực tuyến cho người dùng lựa chọn từ nghe nhạc miễn phí đến nghe nhạc trả phí qua các nền tảng như: Youtube, Facebook, Spotify, Apple music, Deezer, Soundcloud, ZingMp3, Nhacuatui… Dự báo trong tương lai sẽ có thêm nhiều ứng dụng nghe nhạc trực tuyến tham gia vào thị trường âm nhạc Việt Nam; đặc biệt là sự ra đời và phát triển nhanh chóng của các nên tảng chia sẻ video ngắn như Tik Tok, Shorts Google, Reels Facebook… khiến cho việc tiếp cận các tác phẩm âm nhạc trên môi trường số càng trở nên thuận lợi, dễ dàng hơn.
2. Thực trạng
a- Tình trạng xâm phạm quyền tác giả:
Một thực trạng tồn tại khá phổ biến trên thực tế thời gian qua, đó chính là vấn nạn vi phạm bản quyền ở nhiều lĩnh vực như âm nhạc, điện ảnh, sách, hội họa... Bên cạnh đó, những thách thức xâm phạm bản quyền trên không gian mạng càng đòi hỏi các cấp, các ngành và toàn xã hội cần chung tay bảo vệ bản quyền.
Bảo vệ quyền tác giả tác phẩm văn học, nghệ thuật trên không gian mạng là vấn đề quan trọng, góp phần thúc đẩy thành quả sáng tạo và phát triển các ngành công nghiệp văn hóa. Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, các tác phẩm hay những “đứa con tinh thần”, những sáng tạo gắn với cá nhân và quyền lợi càng cần được quan tâm, coi trọng, đặc biệt là đối với một loại tài sản “vô hình”.
Mặc dù giải trí trực tuyến đang là xu hướng và phát triển mạnh, thế nhưng theo thống kê từ VCPMC trong lĩnh vực quyền tác giả âm nhạc, việc bảo vệ bản quyền tác giả và khai thác lợi ích từ môi trường số vẫn chưa thực sự hiệu quả, chưa tương xứng với mức độ phát triển của của thị trường âm nhạc trên môi trường số hiện nay. Có thể nói vấn đề vi phạm bản quyền trên môi trường số đang là một rào cản của sự phát triển của thị trường âm nhạc trực tuyến nói chung và công tác bảo vệ quyền tác giả trên môi trường số nói riêng, đồng thời cũng là những khó khăn và thách thức mà một đơn vị như VCPMC đang gặp phải trong việc bảo vệ quyền tác giả trên môi trường số.
Tình trạng xâm phạm quyền tác giả âm nhạc trên môi trường internet vẫn đang diễn ra khá phổ biến. Với tiến bộ của khoa học công nghệ, việc truyền tải một tác phẩm âm nhạc đến với công chúng không chỉ giới hạn ở cách phát hành truyền thống như phát hành băng đĩa vật lý, mà có thể bằng phương tiện khác như mã hóa, số hóa để lưu trữ, phát hành trên những phương tiện trực tuyến để công chúng có thể trực tiếp truy cập vào thông qua mạng internet, tức là trên môi trường số. Quyền tác giả trên môi trường internet ngày càng dễ dàng bị xâm phạm vì tiến bộ của khoa học kỹ thuật cho phép có những ứng dụng, những tiện ích để thực hiện những trao đổi, sao chép, tải về máy cá nhân các nội dung được bảo hộ. Hiện nay, hàng loạt trang nghe nhạc trực tuyến, ứng dụng nghe nhạc xuất hiện và cho phép đăng tải rất nhiều ca khúc, kể cả những sản phẩm vừa được phát hành của các nghệ sĩ. Trong khi các đơn vị đăng tải nhạc thu lợi khá nhiều tiền quảng cáo, từ chia sẻ doanh thu bởi đơn vị cung cấp dịch vụ trung gian thì các tác giả, nhạc sĩ, ca sĩ lại gần như không thu được gì. Riêng trong lĩnh vực âm nhạc, theo con số liệu thu được thì ở Việt Nam hiện có khoảng hơn 200 website có tính năng nghe nhạc trực tuyến, con số này chưa tính đến số website sử dụng tên miền quốc tế. Tuy nhiên chỉ có số ít các đơn vị thực hiện nghĩa vụ trả tiền bản quyền, gây thiệt hại lớn cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, tạo hình ảnh rất xấu về thị trường trong nước. Chủ thể quyền bị xâm phạm không chỉ là tổ chức, cá nhân trong nước mà bao gồm cả tổ chức, cá nhân nước ngoài.
Ngoài ra, hiện nay, các công ty cung cấp dịch vụ trung gian cho phép người dùng truy cập và đăng tải nội dung nhưng việc kiểm soát bản quyền rất lỏng lẻo gây ra tình trạng xâm phạm quyền tác giả tràn lan. Chính vì vậy thời gian qua, VCPMC đã rà soát, phát hiện và sử dụng công cụ xử lý đối với nhiều website, ứng dụng nhạc có nội dung xâm phạm bản quyền, khuyến cáo các đơn vị sử dụng thực hiện nghĩa vụ về bản quyền theo đúng quy định của pháp luật.
b- Tình trạng người sử dụng thường xuyên lạm dụng cơ chế thỏa thuận để né tránh xin phép và trả tiền bản quyền kèm thêm tư duy sử dụng miễn phí
Theo quy định của pháp luật, việc thỏa thuận giữa các bên cần đảm bảo tiêu chí chung là hài hòa lợi ích giữa người sáng tạo - người sử dụng - công chúng hưởng thụ. Tuy nhiên, trên thực tế, về phía đơn vị sử dụng tác phẩm, vấn đề bản quyền tác giả còn chưa thực sự được tôn trọng; bên cạnh các đơn vị có ý thức nghiêm túc thực hiện thì vẫn còn nhiều đơn vị thay vì sòng phẳng xin phép và/hoặc trả tiền trước khi sử dụng thì lại viện cớ không đạt thỏa thuận về mức tiền bản quyền để trì hoãn hoặc từ chối thực hiện nghĩa vụ. Mặc dù quyền thỏa thuận dân sự giữa các bên cần được bảo đảm về mặt nguyên tắc, nhưng trên thực tế thì phía tác giả thường xuyên phải chấp nhận thiệt thòi, yếu thế. Điều này ảnh hưởng khá lớn đến tâm lý của tác giả, nhạc sĩ, trong khi đó, giới văn nghệ sĩ vốn có tâm hồn khá nhạy cảm. Do vậy mà việc bảo vệ quyền, lợi ích của tác giả cần được coi trọng hơn, quan tâm hơn so với những vấn đề dân sự thông thường để tránh tác động không tốt đến yếu tố tâm lý, ảnh hưởng đến sức sáng tạo và chất lượng sáng tạo, giúp các tác giả an tâm và chuyên tâm sáng tác.
c- Hạn chế trong chế tài xử phạt khi quyền tác giả bị xâm phạm: Hiện nay mức xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quyền tác giả còn thấp, chưa đủ tính răn đe; thiếu hình thức xử phạt bổ sung và khắc phục hậu quả phù hợp. Trong khi đó, các hành vi xâm phạm hiện nay xảy ra khá phổ biến, thực hiện với quy mô lớn và thường xuyên dưới hình thức kinh doanh thương mại, tuy nhiên mức phạt hiện nay không tương ứng được với mức độ vi phạm và thiệt hại mà các đơn vị này gây ra cho các tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả.
3. Giải pháp
Một số giải pháp như sau nhằm giúp cho công tác bảo vệ quyền tác giả được hiệu quả hơn:
- Tăng cường tuyên truyền, phổ biến các quy định của Luật Sở hữu trí tuệ và các văn bản hướng dẫn thi hành nhằm nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật về quyền tác giả, quyền liên quan.
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý các hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan; tăng cường giám sát, kiểm tra xử lý nghiêm các hành vi xâm phạm quyền tác giả trên môi trường số.
- Sửa đổi tăng mức phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi xâm phạm quyền tác giả, quy định thêm về các hình thức xử phạt bổ sung nhằm tăng tính răn đe, góp phần ngăn ngừa hành vi xâm phạm và hậu quả xảy ra.
- Trong mọi trường hợp giới hạn quyền, các quy định của pháp luật cần phải đảm bảo được quyền thỏa thuận công bằng giữa hai bên là chủ sở hữu quyền tác giả và người sử dụng, đảm bảo quyền được nhận thù lao xứng đáng của tác giả dù trong bất kỳ điều kiện nào theo đúng tinh thần công ước Berne.
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền tác giả, quyền liên quan; tăng cường năng lực quản lý nhà nước về thực thi bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan; đào tạo nhân sự và đầu tư cơ sở vật chất để có đủ năng lực quản lý và thực thi quyền tác giả, quyền liên quan trên môi trường mạng.
- Ngoài việc sửa đổi, bổ sung Luật Sở hữu trí tuệ thì các luật chuyên ngành có liên quan cũng cần cụ thể hóa trách nhiệm dân sự, hành chính, hình sự với hành vi xâm phạm quyền tác giả trên internet để có cơ sở pháp lý bảo hộ hiệu quả hơn, cụ thể là:
+ Cần phải bổ sung vào pháp luật hình sự những điều khoản quy định các hành vi xâm phạm quyền tác giả trong môi trường số bao gồm cả tác phẩm âm nhạc như cố ý hủy bỏ hoặc làm vô hiệu các biện pháp kỹ thuật do chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện, cố ý xóa, thay đổi thông tin quản lý quyền dưới hình thức điện tử, sản xuất, lắp ráp, biến đổi, phân phối nhập khẩu, xuất khẩu, bán hoặc cho thuê các thiết bị làm vô hiệu các biện pháp kỹ thuật và đặt ra các chế tài tương ứng đối với mỗi hành vi vi phạm này.
+ Cần phải quy định thêm các biện pháp khẩn cấp tạm thời áp dụng trong môi trường kỹ thuật số và các văn bản hướng dẫn chi tiết trong việc quy định trách nhiệm của các nhà cung ứng dịch vụ internet, từ đó tạo điều kiện dễ dàng cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền làm cơ sở để xử lý vi phạm.
+ Hiện nay, đối với các website và ứng dụng có máy chủ đặt ở nước ngoài hoặc sủ dụng tên miền nước ngoài thì biện pháp khả thi nhất là ngăn chặn truy cập, để thực hiện được điều này thì cần quy trình hết sức phức tạp. Vì vậy, cần thiết có một cơ chế phối hợp giữa các cơ quan có liên quan để việc thực hiện biện pháp này trở nên thuận tiện hơn.
- Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong việc bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc trong môi trường kỹ thuật số và tăng cường tham gia và đảm bảo thực thi các Điều ước quốc tế trong lĩnh vực này.
- Nghiên cứu về hướng tách Luật Bản quyền tác giả: Đây là hướng mà nhiều quốc gia đã thực hiện. Việt Nam cần nghiên cứu và có sự chuẩn bị, đến thời điểm phù hợp và sớm nhất có thể thì tiến hành tách Luật Bản quyền tác giả để ban hành riêng, trở thành luật chuyên ngành độc lập theo thông lệ quốc tế, giúp cho việc triển khai, áp dụng luật được hiệu quả trên thực tế; việc soạn thảo, ban hành văn bản hướng dẫn cũng thuận lợi hơn về mặt nội dung chuyên môn, kiến thức chuyên ngành, tiến gần đến chuẩn mực quốc tế nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập và tham gia các Điều ước quốc tế; tăng cường năng lực thực thi bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan, áp dụng hiệu quả các biện pháp bảo vệ quyền, đặc biệt là phù hợp với xu thế cần thành lập tòa án chuyên trách về sở hữu trí tuệ hiện nay các vụ việc tranh chấp về quyền tác giả đa phần được xếp vào án kinh doanh thương mại, hoặc một số ít được xếp vào án dân sự.
Kết luận:
Theo xu hướng phát triển hiện nay thì quyền tác giả cũng được coi là một phần của văn hóa, pháp luật bản quyền không chỉ bảo vệ văn hóa mà còn là một phần của văn hóa. Tôn trọng pháp luật bản quyền vì thế cũng là hành động hết sức cần thiết để khuyến khích phát triển văn hóa, phát triển bền vững đất nước.
Một số hình ảnh của Tổng Giám đốc VCPMC tại Hội thảo


___
_________________
Tài liệu tham khảo:
-
“Các quy định pháp luật Việt Nam và quốc tế về quyền tác giả và quyền liên quan”, Cục Bản quyền tác giả.
-
“Chính sách văn hoá - nhìn từ vấn đề bản quyền tác giả trong lĩnh vực văn học nghệ thuật” của tác giả Nguyễn Thị Hương, Tạp chí Lý luận Chính trị và Truyền thông.
-
“Một số ý kiến nhằm đẩy mạnh bảo hộ quyền tác giả ở Việt Nam trong thời gian tới” của tác giả Nguyễn Lan Nguyên, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN.
-
“Thực thi bản quyền tác phẩm: Những vấn đề nổi cộm từ thực tiễn - Bài 2: Bất cập trong bảo vệ quyền tác giả” của tác giả Lại Tấn, Báo Kinh tế và Đô thị.
-
“Hoàn thiện hành lang pháp lý về quyền tác giả, quyền liên quan” của tác giả Phương Anh, Cổng thông tin điện tử Bộ VHTTDL.
-
“Khi quyền tác giả là một phần của văn hóa!” của tác giả Lê Thiên Hương, Tạp chí Kinh tế Sài Gòn Online.
-
“Thị trường văn hóa, khái niệm và đặc trưng” của tác giả Đỗ Thị Quyên, Tạp chí VHNT.
-
“Công ước Berne và sự tương thích với Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam” của tác giả Ls. Đỗ Chiến Thắng, Tạp chí điện tử Tòa án nhân dân.
-
“Vấn đề bản quyền trong phát triển công nghiệp văn hóa ở nước ta hiện nay” của tác giả TS. Nguyễn Việt Anh, Tạp chí Lý luận chính trị.
-
Báo cáo tham luận “Bảo vệ quyền tác giả âm nhạc trên môi trường số” của VCPMC.